CUỘC BÁO THÙ (Chuyện có thật)
Cơn ác mộng kinh hoàng nửa đêm khiến Tú muốn nghẹn thở,
chòang tỉnh dậy khi mồ hôi toát ra đầm đìa như tắm làm Tú không tài nào nằm
tiếp được dù trời vẫn còn lâu mới sáng. Chàng ra bàn lấy nước uống, ngồi suy
nghĩ mông lung, giấc mơ làm chàng hồi tưởng lại một quá khứ đã qua từ mấy mươi
năm trước tưởng chừng đã gột bỏ khỏi tâm trí theo thời gian...Một quá khứ đầy
biến động kinh hoàng nhưng không kém phần ly kỳ. Nhất là Tú lại là người có tâm
hồn vô cùng nhạy cảm nên càng bị ám ảnh. Tú dần dần đưa mình trở ngược về thời thơ dại...
ĐỜI SỐNG KHÓ KHĂN
Cuối Thu năm 1957 khi gia đình Tú dọn về sinh sống thì
thị xã nhỏ Pleiku vẫn còn là một nơi hoang dã lạc hậu. Bố Tú là quân nhân, hơn
nữa tánh tình ông rất cương trực và luôn binh vực cũng như yêu thương lính dưới
quyền. Ông thường đòi hỏi sự công bằng cho họ nên phải tranh cãi với cấp trên nhiều
lần, vì thế hay bị đưa đi tác chiến khắp nơi tùy theo tình hình chiến sự. Mẹ
con Tú cứ lếch thếch theo ông hết từ vùng heo hút này qua nơi đồi núi khác. Thưở
ấy còn bé chưa đủ tuổi đi học, nên bây giờ trong tâm trí lờ mờ của Tú chỉ còn
nhớ đại khái được mấy nơi. Từ Đà Nẵng, Mỹ Khê , Quảng Ngãi, Rừng Lăng, rồi về đến
Pleiku thì mẹ của Tú bàn với chồng là bà
muốn dừng chân lại nơi này không đi theo ông nữa. Năm đó người chị lớn hơn hai
tuổi tên Mai Anh của Tú đã bắt đầu tuổi đến trường, hơn nữa mới có chương trình
chia đất cho gia đình quân nhân sinh sống. Cha của Tú bằng lòng, và thế là cả một
nhóm người nhận nơi rừng núi Cao Nguyên này làm quê hương thứ hai.
Vì số gia đình binh sĩ quá đông khó có thể một lúc lo
chỗ ở cho tất cả nên thoạt tiên mọi người được đưa về nơi này. Giữa vùng cỏ
tranh cao lút đầu người, chung quanh cây cối rậm rạp tối tăm, có sẵn từ bao giờ
một khu nhà mái lợp tranh chia ra từng căn, vách đất liền nhau, cũ nát và sơ
sài như trại lính cũ bỏ hoang. Mỗi gia đình được cấp một căn, rộng khoảng 30 m2.
Dù không vui nhưng đành chịu, mọi người ra sức chia nhau dọn cỏ mọc hoang khắp
nơi ngay cả trong lòng căn nhà, rồi sửa sang lại vách có chỗ đã bị xiêu vẹo và
làm từng cánh cửa ra vào cho chắc chắn. Tuy mang tiếng là cỏ nhưng có lẽ đã lâu
đời không có bàn tay con người đụng đến nên có chỗ mọc cao tới cả gần hai thước,
cỏ tranh có lá nhỏ dài và sắc bén như dao, vô tình nắm phải là đứt tay liền. Rễ
của nó ăn rất sâu trong lòng đất rất khó bứng tận gốc. Chúng mọc dày chi chít
chen chúc nhau nên công việc càng thêm khó nhọc. Lũ trẻ con cùng ra phụ
nhưng nghịch ngợm thì nhiều hơn, chúng nó mặt mày đỏ gay, nhễ nhại mồ hôi cứ la
chí chóe làm người lớn thêm mệt mỏi.
Nghe nói rễ cỏ tranh ngọt không thua gì mía, lại rất mát nữa nên mấy bà
cụ mang về rửa sạch để nấu nước cho mọi người uống. Phải mất mấy ngày trời mọi
việc mới tạm ổn định, hơn ba chục gia đình sống quây quần với nhau trong dãy
nhà thiết kế theo hình chữ U. Mảnh đất giữa sân là nơi cho trẻ con chơi đùa, và
một bên dưới mái che duy nhất được lợp bằng tôn, phía trong đặt những chiếc lò
đất nung. Đây là khu nhà bếp để nấu nướng chung, cạnh đó là một cái giếng tuy
lâu không sử dụng nhưng nước vẫn rất trong. Tất cả sinh hoạt thân thiện như
trong một gia đình, hầu hết là người già, đàn bà và trẻ con. Những người đàn
ông là chủ gia đình, sau mấy ngày lo chỗ ăn ở cho vợ con lại lên đường đi làm
nhiệm vụ hay ra trận mạc đây đó. Căn của cha mẹ Tú bốc thăm được là căn thứ mười
lăm, gần như chính giữa nên mẹ bảo là may mắn, nhà có ba mẹ con ở giữa sẽ đỡ sợ
hơn. Người ở một bên đầu dãy nhà là chú thím Bảy, người miền Trung có giọng nói
rất lạ, và đầu kia là nhà chú thím Rậu người Bắc di cư như cha mẹ của Tú.
Tuy được cấp phát gọi là đầy đủ, nhưng mọi đồ dùng cho
sinh hoạt hàng ngày đều nghèo nàn thiếu thốn. Vì cuộc sống khó khăn của gia đình lính tráng
đã quen nên không ai phàn nàn gì, chỉ đáng sợ là cái rét căm căm đến nhức nhối
thịt da, trong khi chưa ai biết gì về vùng đất này mà chuẩn bị kịp cho quần áo
của mùa Đông thành ra càng thêm khó chịu. Tú
nghe mẹ và các bác nói chuyện với nhau, mới đầu tháng Mười thôi sao đã lạnh thế,
không biết mùa Đông nơi đây ra sao! Những
người lớn tuổi luôn miệng xuýt xoa, trẻ con không cảm thấy cái lạnh hay do chạy
nhảy nhiều mà quên mất, chỉ một thời gian ngắn thôi mà hai gò má bọn trẻ đỏ hồng
đến nứt nẻ. Phương tiện duy nhất để xua bớt sự băng giá là đốt lò than ngay giữa
nhà, mọi người quây quần chung quanh làm việc hay nói chuyện. Tiếng tí tách của
than nổ như hòa theo tiếng nói cười của đám trẻ làm tan bớt đi sự lo lắng của
người lớn.
Trời vừa tắt nắng,
hơi lạnh của núi rừng càng về khuya càng lan tỏa, từng làn sương mỏng bay tràn
khắp nơi, len lỏi trong từng xó xỉnh đến nỗi lò than đặt giữa nhà luôn hừng hực
cháy đỏ vẫn không thể làm không khí đủ ấm lên, khiến ai nấy đều chỉ mong được mau
mau quấn mình trong chiếc mền nhà binh dầy cộm. Mặc dù từ nơi gia đình Tú ở ra
đến con đường chính trải nhựa của thị xã chỉ có một quãng đường ngắn, nhưng
trong vùng này lại hoang sơ chưa có điện, mới 6 giờ chiều trời đã tối om, ánh
sáng của những ngọn đèn dầu vàng vọt nhảy lung linh mờ tỏ càng làm cho không
gian thêm âm u đáng sợ. Tiếng cóc nhái, ễnh ương dai dẳng suốt đêm, thỉnh thoảng
lại chen vào tiếng kắc kè tặc lưỡi, cú rừng kêu đến là ghê rợn. Đủ thứ âm thanh
hỗn tạp khua động không gian và đe dọa tinh thần người yếu bóng vía. Tú dù mê
ngủ vẫn thỉnh thoảng thức giấc nằm co rúm người lại không dám nhúc nhích. Mấy mẹ
con nằm sát nhau trên cùng một chiếc giường tre, Tú quay mình ôm chặt cánh tay mẹ tìm sự che chở rồi
lại thiếp đi. Mới năm tuổi, Tú chưa nghĩ tới được chuyện gì xa xôi và khó khăn
của cuộc sống nên vẫn thoải mái vui tươi trong hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn.
Tờ mờ sáng một ngày nọ có mưa về, cơn mưa cuối mùa của
vùng Cao Nguyên nhưng cũng đủ lớn đến rúng động cả đất trời. Tiếng ầm ầm của
gió đánh bạt cây rừng như giận dỗi, mưa xối xả và những mảng nước từ đâu đổ về
ngập tràn len vào cả nền nhà tuy đã được đắp cao hơn phía ngoài sân đến mấy tấc.
Mẹ con Tú thức giấc trong lạnh run vì lò than đã tắt ngấm từ lúc nào. Mưa dội
trên mái nhà rầm rập, kèm theo gió cuốn muốn tung cả nóc. Nước ào ạt tuôn xuống
qua lỗ hở mái tranh khiến mẹ cuống cuồng không biết làm gì, lạnh run cầm cập ngồi
lo sợ ôm chặt hai đứa con trên giường, chỗ may mắn trong nhà không bị dột ướt.
Sáng đó mẹ phải đội mưa ướt ra ngoài sân nấu vội tô mì gói cho hai chị em Tú ăn
đỡ, vì cơn mưa chỉ tạnh vào buổi trưa sau mấy tiếng đồng hồ thị uy đám người tội
nghiệp. Tuy thế nước vẫn còn lênh láng
khắp nơi chưa rút kịp theo sau cơn mưa. Đám trẻ con thừa dịp bì bõm đuổi bắt nhau
trong những vũng ngập quên cả cơm trưa trễ nãi. Bùn sình đỏ quạch nhơ nhớp
vương vãi mọi chỗ, và mặt đất trơn trượt làm người người ngã sấp ngã ngửa. Nhìn
nhau cười ra nước mắt! Người lớn bận rộn lo tu sửa những nơi bị dột và hư hỏng,
vì đã kinh nghiệm hơn nên họ dùng những cây nẹp lớn đè trên mái nhà
và cột chặt lại cho gió khỏi làm bay mất lớp tranh lợp. Sau trận mưa rừng như thác lũ ấy, còn
thêm vài trận nữa nhưng không đáng kể, rồi dứt hẳn để đón chào mùa băng giá đến.
Nền nhà cũng đã được đổ đất lên cho cao hơn nữa để tránh mùa sau bị ngập nước.
Bận rộn cho đến cuối tháng thì đâu đã vào đấy. Thời tiết
lạnh hơn nữa nhưng không khí thì trong lành đến dễ chịu. Sau một tháng ở nơi xa
lạ, mọi sinh hoạt đã trở lại bình thường. Mẹ Tú chuẩn bị mọi thứ cho mùa Đông,
bà dùng những chiếc que vót nhỏ bằng tre dạy cho chị Mai Anh của Tú đan mũ và
găng tay bằng len, dù chị chỉ mới bảy tuổi đầu với hai bàn tay bé xíu. Còn mẹ
thì đan áo lạnh hay ngồi bên bàn máy, may quần áo mới cho hai chị em. Mẹ
còn nhận may và đan áo cho mọi người để
kiếm thêm thu nhập nên luôn bận rộn. Tú được dịp nhõng nhẽo vòi vĩnh đủ thứ,
nhưng mẹ chiều nên luôn đáp ứng. Và Tú thấy mình là đứa con sung sướng nhất
trong đám trẻ cùng xóm dù luôn thiếu vắng cha. Tú lang thang suốt ngày với bọn con nít để đánh
đinh đánh đáo quên cả lạnh buốt. Trong tiếng cười ròn tan vô tư của đàn trẻ thì
người lớn chụm lại chia sẻ đủ mọi thứ . Sau chuyến hành quân dài ngày, cha của Tú được về phép cả tuần lễ trước khi
sang nhiệm vụ mới, mẹ vui lắm nhưng chắc chị em Tú thì vui hơn vì được chiều
chuộng sau thời gian cha xa nhà..
NGUY HIỂM RÌNH RẬP
Khoảng 3 giờ sáng đêm hôm đó, tất cả mọi người đang mê
mệt chìm trong giấc mộng thì bị đánh thức dây bởi tiếng chó sủa ồn ào dồn dập, nghe
cha thì thào nói với mẹ, hình như có sự gì lạ đang diễn ra ở chung quanh. Cha dặn
mẹ con cứ nằm yên trong nhà không được ra ngoài, cha nhẹ mở hé cửa rồi vớ lấy
khẩu súng lách mình qua. Mấy mẹ con hồi hộp ngồi bật lên nhìn theo trong lo âu.
Tiếng chó tự nhiên im bặt trả lại sự im lặng đáng sợ cho màn đêm. Có tiếng súng
nổ thật lớn làm giật mình. Một lúc sau cha về cho biết không có gì. Nhưng cha mẹ
Tú lại thì thào nói thầm chuyện gì đó. Tú co tròn nằm trong lòng cha và ngủ thiếp đến
sáng bạch mới thức giấc. Dụi mắt nhìn quanh và hoảng sợ khi thấy chỉ còn một
mình mình trong nhà, Tú chạy vụt ra, chen vào đám đông đang tụ lại ở một góc
sân bàn tán xôn xao. Tú điếng hồn khi nhìn
thấy xác con chó cưng berger to lớn nhà ông Năm bị mất một nửa người
phía dưới nằm chết, mình mẩy be bét máu. Đám trẻ con sợ hãi xanh mặt, nhìn nhau
ngầm hỏi không biết chuyện gì. Cha của Tú và các chú bác trong xóm đang ở một
góc sân hình như đang họp bàn chuyện gì quan trọng lắm mà trên nét mặt ai nấy đều
nghiêm trang. Ngay chiều hôm đó Tú đã thấy có một hàng dây giăng ngang bít lối
ra của hai đầu dãy nhà hình chữ U, những ống lon đủ màu sắc cột lủng lẳng trên
đó không biết để làm gì, chúng kêu leng
keng khi có gió hay ai đụng vào.
Yên tĩnh được hai hôm, cũng nửa đêm bỗng mọi người lại
bị thức giấc khi nghe tiếng ồn gì thật lớn đâu đó rất ghê rợn, tiếng gầm rền vang
như tiếng trống xoáy trong tim. Tú thấy cha nó và những người lớn gọi nhau rồi chụm
lại thầm thì. Có chú lính Thượng tên Y Ksor cho biết là vùng này ngày
xưa là nơi “Ông Ba Mươi’ (hổ) sinh sống, mọi người phải cẩn thận. Dạo này vùng
đất hoang, lãnh thổ của mãnh thú như cọp đã bị loài người xâm chiếm dần nên chúng
rất thiếu thốn thức ăn, có thể bất thần đến gần khu nhà dân ở để tìm kiếm thực
phẩm nên rất nguy hiểm. Tin này càng khiến
cho cả đàn bà và bọn trẻ được dặn dò kỹ lưỡng đừng ra ngoài ban đêm, nhất là đi
một mình. Nhưng khổ nỗi thuở đó mỗi lần cần thiết là phải đi tít thật xa khuất
khu nhà ở, sát bên bìa rừng cây trong bụi rậm. Đêm đến, bọn trẻ con hay bị chột
bụng bất thường là nỗi khổ tâm nhất của
người lớn. Sáng hôm sau, một dãy nhà vệ
sinh được làm cẩn thận ở ngay sau khu nhà ở, nhưng muốn đi phải có hai người
cùng kèm trong đó có một là đàn ông mang theo súng chứ đàn bà trẻ con không dám
tự đi một mình.
- Bà con ơi, ra lãnh thịt săn về ăn nè.
Tiếng gọi nhau vang cả xóm khiến không khí náo động. Không biết là thịt gì nhưng nghe nói rất là bổ dưỡng, từng nhà đều được chia phần hưởng
chung. Chảo thịt rừng thật to được nấu sẵn bốc khói dậy mùi đặc biệt đặt ngoài sân, cha mẹ của Tú cũng được một tô lớn mang về nhà, riêng chị em Tú không thích ăn vì thấy có mùi vị gì là lạ, cuối cùng đổ đi vì không ai động đến miếng nào. Có hỏi nhưng cha mẹ không nói nên hai chị em cũng quên đi. (Sau này mới vỡ lẽ ra đó là thịt con cọp mấy chú người Thượng vừa săn được, họ lóc thịt làm thức ăn còn xương đem đi hầm làm ra loại cao nên có tên gọi là “Cao hổ Cốt”.)
chung. Chảo thịt rừng thật to được nấu sẵn bốc khói dậy mùi đặc biệt đặt ngoài sân, cha mẹ của Tú cũng được một tô lớn mang về nhà, riêng chị em Tú không thích ăn vì thấy có mùi vị gì là lạ, cuối cùng đổ đi vì không ai động đến miếng nào. Có hỏi nhưng cha mẹ không nói nên hai chị em cũng quên đi. (Sau này mới vỡ lẽ ra đó là thịt con cọp mấy chú người Thượng vừa săn được, họ lóc thịt làm thức ăn còn xương đem đi hầm làm ra loại cao nên có tên gọi là “Cao hổ Cốt”.)
Liên tiếp mấy đêm liền, ngay cả lũ
trẻ con cũng khó ai ngủ yên được vì tiếng cọp gầm mỗi lúc một gần và nhiều
hơn. Không gian yên tĩnh không còn nữa,
từng gương mặt hằn nét căng thẳng lo âu.
Những chú bác lính chưa có lệnh hành quân được cắt cử giữ an ninh cho
toàn khu nhà. Cha của Tú lại phải lên đường đi hành quân khiến mẹ
càng tỏ vẻ sợ hãi, cứ chiều xuống là lùa
hai chị em vào trong nhà đóng cửa lại. Cũng may là trước khi xa nhà cha Tú đã kịp
thời làm một buồng vệ sinh ngay trong căn nhà nhỏ, có ống cống luồn qua vách
thông ra ngoài sau. Ông lại đem ở đâu về 2 thùng phuy thật lớn có làm sẵn vòi vặn,
rồi mấy ngày múc nước giếng mang về đổ đầy ắp, trên có nắp đậy đàng hoàng. Tuy diện tích ở bị thu hẹp đôi chút, bù lại rất tiện
lợi, dù sao đồ đạc cũng chẳng có gì nhiều nên mấy mẹ con vẫn có đủ chỗ sinh hoạt.
Ông cũng hướng dẫn cho cả xóm cách làm nhưng chỉ có mấy gia đình là thực hiện
theo.
THẢM KỊCH BẮT ĐẦU
Tiếng súng và lựu đạn nổ ầm ầm sát
bên dãy nhà, tiếng cọp gầm vang rồi tiếng chân chạy và tiếng hét la chói tai
liên hồi làm kinh động cả bầu không gian. Mẹ con Tú co rúm người sợ hãi, thắc mắc
nhưng cũng không dám mở cửa ra xem. Trời vẫn còn chưa sáng hẳn dù đồng hồ đã chỉ
năm giờ hơn. Tú tỉnh ngủ hẳn ngồi trong lòng mẹ thập thò nhìn ra phía cánh cửa
đóng kín, Mai Anh thì ngồi bên cạnh ôm chặt cánh tay mẹ. Sáng bạch rồi, tiếng ồn
ào từ bên ngoài khiến mẹ con Tú mạnh dạn mở cửa ra xem. Hồn vía Tú như bay mất
khi lần đầu tiên nhìn thấy xác một con hổ to lớn như ngọn núi nhỏ, chiếc bụng
phệ ước chừng chứa cả con bê đang nằm giữa sân, vết máu nơi cổ vẫn còn đang rỉ
ra từng giòng. Thì ra hồi đêm khi cùng hai chú nữa trong phiên canh gác, chính ông Năm là người có con
chó cưng bị chết hôm nào đã hạ được con hổ này khi nó mon men đến gần khu nhà. Chắc
là nó đói lắm nên cứ chồm đến ông dù đã nghe bắn mấy phát súng đe dọa. Trong đường
tơ kẽ tóc, ông gần như bị nằm phía dưới bốn chân nó và đã kịp thời nổ phát súng
tự cứu mạng mình. Tuy là người rất giỏi võ nhưng mặt và người ông cũng bị rách xước
do trúng móng vuốt của hổ khi nó bị ngã ập lên người ông vì trúng đạn nơi chỗ
hiểm. Nhìn cái xác to lớn của con hổ đã chết đang đè cứng trên người ông Năm, ai
nấy đều rùng mình ớn lạnh. Phải mấy người lớn lực lưỡng dùng đòn nâng con hổ lên mới lôi được
ông ra , cả đầu tóc mặt mũi ông Năm dính đầy máu trông
thật dễ sợ. Con hổ vừa bị hạ sát đang
mang thai, khi mổ xác ra mọi người mới biết.
Ai cũng Tưởng rằng chuyến này lũ hổ sẽ biết sợ mà tránh xa, nhưng không ngờ một chuyện đáng tiếc lại xảy ra chỉ cách đó có một tuần lễ sau. Lúc đó trời vẫn còn sáng tỏ, mặt trời vừa mới bị che khuất sau núi nhưng vẫn còn le lói xa xa. Mấy người đàn bà cùng ra chỗ nhà vệ sinh, khi trở về thì đột nhiên một tiếng gầm rợn người xé toang không gian, rồi con hổ núp sẵn từ lúc nào trong bụi cỏ hoang phóng ra chụp trúng bà Năm đi ngoài bìa, ngay tức thì xác bà bị xé nát không kịp kêu tiếng nào. Con hổ ngoạm một phần thân dưới của bà Năm tha đi bỏ lại nửa cái xác người nằm đó trước những khuôn mặt hoảng sợ đến trắng bệt như không còn máu của hai bà khác, trong nháy mắt nó chạy vút vào rừng mất hút. Tất cả chứng kiến sự việc đều đứng trợn mắt như bị trời trồng, khi hoàn hồn lại, thì khu rừng đã ồn ào những tiếng khóc la. Cả xóm đổ nhau ra để chấp nhận một cảnh tượng kinh hoàng đến toàn thân run rẩy. Điều lạ là vợ ông Năm đang mang thai đứa con thứ hai được bốn tháng, đứa bé vừa hình thành đầy đủ tứ chi nhỏ xíu bị rơi ra khỏi bụng mẹ nằm giữa đống máu bê bết. Ông Năm uất nghẹn ngất lên ngất xuống vì thương vợ con, thằng Hà là con ông Năm bạn của Tú đứng gần đó run cầm cập, miệng thì hét lên kêu mẹ inh ỏi :”Mẹ ơi, mẹ ơi!”, tiếng kêu trẻ thơ xé lòng vang trong không khí ảm đạm u buồn.
Đám ma bà Năm diễn ra trong một buổi sáng mùa Đông giá
buốt, có gió lốc thổi bụi đỏ bay mịt mù khắp trời, trong ánh nắng dìu
dịu trải rộng mênh mông, khiến từ xa nhìn thấy đám ma như những
bóng người từ trong sương mờ ảo. Trên đường
ra nghĩa trang, một nghĩa trang cũng hoang sơ chỉ có những nấm đất nằm xơ xác u
tàn buồn bã. Đoàn người đi theo quan tài đều thương cảm đến rơi lệ theo. Sau
hôm đó khi trở về nhà, ông Năm trở thành ngơ ngác như người mất hồn. Bác Sĩ
không tìm ra bệnh, và một thời gian sau ông được giải ngũ với hồ sơ mang bệnh
tâm thần. Thật ra ông Năm rất tỉnh táo chứ không hề phá phách và làm phiền lòng
hàng xóm anh em. Ông chỉ không chú tâm và nhớ việc gì để làm, sao ông có thể tiếp tục ở trong quân đội được! Không hiểu sao
ông nhớ rõ đường đi ra nghĩa trang và vị trí ngôi mộ của vợ con để mỗi ngày ông
một mình đi đến ngồi lặng thinh cả buổi bên cạnh. Dù nắng hay mưa và có giá rét
đến đâu, cũng không ai ngăn cản ông được, mặc thằng con trai nhỏ khóc lóc đòi bố.
Qua mùa Xuân thì tất cả mỗi gia đình đều được cấp miếng
đất lớn riêng để có thể tự canh tác, đời sống được ổn định dần. Dãy nhà hình chữ
U đã được phá đi và là một kỷ niệm buồn đáng nhớ. Một thời gian sau, mọi người
có dịp được gặp lại và nghe chú Thượng Y Ksor giải thích, vùng này loài hổ rất
linh thiêng và nhạy bén. Chú đoán là con hổ có bầu hôm trước bị giết chắc là vợ con của
con hổ này. Thì ra hổ đực đã quyết tâm trả thù, nhưng không hiểu sao nó lại biết bà Năm là vợ
của thủ phạm đã giết vợ con nó, đó là điều bí mật khó giải. Cũng là điều khiến
tất cả mọi người cẩn thận hơn cũng như có cái nhìn và khái niệm khác về một loài
dã thú như hổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét